-
Được đăng: 08 Tháng 6 2022
-
Lượt xem: 916
SKĐS - Ung thư gan nguyên phát là bệnh lý ác tính của gan xảy ra khi tế bào bình thường của gan trở nên bất thường về hình thái và chức năng. Ung thư gan nguyên phát phần lớn là ung thư tế bào gan hoặc tế bào ống thường gặp ở các nước nhiệt đới.
1.Tổng quan ung thư gan nguyên phát
Ung thư gan xuất hiện khi các tế bào gan bắt đầu phát triển bất thường và hình thành một khối u ác tính. Theo thống kê trên 80% ung thư gan là ung thư tế bào gan nguyên phát, ung thư này xảy ra ở nam gấp đôi nữ và thường gặp ở tuổi trên 50.
Ung thư gan nguyên phát được chia nhỏ hơn nữa thành 4 loại dựa vào điểm xuất phát của ung thư trong gan:
-Ung thư biểu mô tế bào gan – xuất phát từ các tế bào gan và nó phổ biến hơn ở nam giới và những người bị xơ gan. Đây là loại ung thư gan phổ biến nhất.
-Ung thư đường mật – đôi khi còn được gọi là ung thư ống mật, nó xuất phát ở ống mật trong gan.
-U nguyên bào gan – thường thấy ở trẻ em dưới 4 tuổi
-U máu ác tính – xuất phát trong mạch máu gan và phát triển rất nhanh.
2. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ ung thư gan nguyên phát
Theo nghiên cứu, ung thư tế bào gan nguyên phát là dạng ung thư gan phổ biến nhất chiếm 80% trường hợp mắc ung thư gan. Ung thư tế bào gan nguyên phát bắt đầu xảy ra từ tế bào gan. Người ta chưa biết chính xác nguyên nhân ung thư gan nguyên phát nhưng viêm gan do virus mạn tính, xơ gan là yếu tố nguy cơ ung thư gan nguyên phát. Xơ gan chiếm 80% truờng hợp ung thư gan nguyên phát. Dạng khác của ung thư gan là ung thư đường mật. Đây là ung thư xuất phát từ ống dẫn mật và nguyên nhân là do viêm xơ chai đường mật nguyên phát. Ung thư đường mật có thể do nhiễm ký sinh trùng , chẳng hạn như sán lá nhỏ. Ung thư này phát triển theo đường dẫn mật, rất khó thấy trên phim X quang.
Theo nghiên cứu, hầu hết những bệnh nhân ung thư gan có ghi nhận một hoặc vài yếu tố nguy cơ sau:
-Xơ gan: Có nhiều nguyên nhân gây xơ gan nhưng thường là do uống rượu và viêm gan siêu vi C. Tuy nhiên, chỉ một số ít bệnh nhân ung thư gan tiến triển thành ung thư gan.
- Viêm gan B hoặc viêm gan siêu vi C lâu dài. Thông thường phải mất khoảng 20-30 năm sau khi nhiễm bệnh mới xuất hiện ung thư gan. Nhiễm viêm gan virus rất phổ biến ở châu Á và châu Phi. Rất nhiều trẻ nhỏ ở đây nhiễm viêm gan siêu vi B, đó là lí do ung thư gan ở những vùng này thường gặp ở người trẻ tuổi.
- Hóa chất hoặc độc tố. Ví dụ như aflatoxin, là chất thường bị nhiễm trong một số loại thực phẩm như hạt đậu phộng bị mốc. Vấn đề này chủ yếu xảy ra ở các nước đang phát triển.
-Một số tình trạng viêm nhiễm kéo dài của đường ruột như viêm loét đại tràng, làm tăng nhẹ nguy cơ ung thư đường mật.
-Một số bằng chứng cho thấy hút thuốc lá có thể làm tăng nguy cơ ung thư gan.
-Nhiễm ký sinh trùng (sán lá gan). Chủ yếu xảy ra ở châu Phi và châu Á làm tăng nguy cơ xuất hiện ung thư đường mật.
3. Triệu chứng ung thư gan nguyên phát
Ung thư gan hiếm khi được chẩn đoán ở giai đoạn sớm vì các bệnh nhân không có triệu chứng gì trừ khi họ đi kiểm tra sức khỏe định kỳ.
Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng đầu tiên có thể khá mơ hồ và không đặc hiệu như cảm thấy không khỏe, khó chịu (buồn nôn), chán ăn, sụt cân và mệt mỏi. Nhiều người mắc bệnh ung thư gan nguyên phát đã có các triệu chứng liên quan đến xơ gan từ trước. Do đó, nếu đang bị xơ gan mà sức khỏe của bạn diễn tiến xấu đi khá nhanh thì có khả năng đã xuất hiện ung thư gan.
Khi ung thư tiến triển xa hơn nữa, các triệu chứng đặc hiệu có thể xuất hiện bao gồm: Đau bụng ở vị trí của gan; Vàng da và niêm mạc. Triệu chứng bắt đầu xuất hiện trước tiên ở tròng trắng của mắt sau đó vàng dần dần toàn thân. Vàng da xuất hiện do ung thư gây tắc nghẽn ống mật làm bilirubin không được bài tiết xuống ruột và thấm vào máu.
Người bệnh còn có biểu hiện ngứa, bụng to do khối ung thư phát triển to hoặc do tụ dịch trong ổ bụng gây ra bởi các rối loạn chức năng gan. Sức khỏe người bệnh xấu đi đối với những bệnh nhân bị viêm gan hoặc xơ gan.
4.Chẩn đoán và điều trị ung thư gan nguyên phát
Để chẩn đoán ung thư gan nguyên phát các bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm máu – xét nghiệm chức năng gan có thể bất thường và chỉ điểm khối u cụ thể (AFP) có thể tăng cao. Chẩn đoán hình ảnh – siêu âm, chụp cắt lớp, cộng hưởng từ hoặc chụp mạch.
Sinh thiết gan – có thể được thực hiện tù mù hoặc có sự hướng dẫn của hình ảnh (siêu âm hoặc hình ảnh cắt lớp) hoặc nhìn trực tiếp (nội soi hoặc mở).
5.Điều trị ung thư gan nguyên phát
Hiện nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, có rất nhiều phương pháp để điều trị bệnh ung thư gan hay còn gọi là điều trị đa mô thức. Nếu khối u lưu trú còn nhỏ, chức năng gan tốt thì phẫu thuật sẽ hiệu quả.
Tùy từng cá nhân điều trị phụ thuộc vào giai đoạn bệnh gan, chức năng gan, và tuổi tác của bệnh nhân và tình trạng sức khỏe:
- Nút mạch bằng hóa chất để kiểm soát hoặc thậm chí làm khối u co nhỏ lại;
- Đốt sóng cao tần (RFA) được thực hiện qua kỹ thuật có hướng dẫn của hình ảnh (cắt lớp hoặc siêu âm) hoặc trong phẫu thuật;
- Tiêm hoạt chất phóng xạ– đưa phóng xạ thẳng tới khối u. Ở những bệnh nhân bị ung thư gan di căn, hóa trị hệ thống có thể được cân nhắc. Có thể qua đường uống hoặc tiêm.
- Phẫu thuật: Dễ dàng với ung thư khi nó vẫn nằm trong gan. Phẫu thuật có thể cắt bỏ cục bộ, được xác định khối u chỉ nằm trong gan và có thể phẫu thuật cắt bỏ, khi chức năng gan vẫn tốt. Ghép gan trong trường hợp ung thư gan không phẫu thuật được khi có xơ gan hoặc khối u phát triển trong phạm vi hai thùy gan trở lên.
Tóm lại: Phòng bệnh là phương pháp tốt nhất chống ung thư gan. Phải nỗ lực làm giảm xơ gan, phát hiện sớm và điều trị viêm gan virus mạn tính. Các thuốc điều trị viêm gan virus mạn tính, thuốc chống siêu vi cũng có thể làm giảm tỉ lệ ung thư gan.
Vaccin chống siêu vi A, B rất cần thiết, đặc biệt với người viêm gan C. Không nên uống rượu. Phải khám sức khỏe định kỳ những người có nguy cơ nhằm phát hiện ung thư gan sớm.
Bs Phạm Thị Thu